Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

Khủng hoảng Hy Lạp (II)

2. Nguồn gốc khủng hoảng

Các nước Châu Âu đã ngăn chặn rủi ro thâm hụt tài hóa đến sự tồn tại của đồng tiền chung, hiệp ước Maastricht 1992 đã đưa ra các ràng buộc quan trọng buộc các thành viên EURO phải giữa thâm hụt ngân sách dưới mức 3% và dần đưa tỷ lệ nợ công/GDP xuống dưới 60%. Mức tỷ lệ thâm hụt được đưa ra có lẽ dựa trên tính toán về tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa của khu vực sẽ ở mức cao hơn 3%. Về mặt lý thuyết nếu tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa, tỷ lệ nợ công/GDP sẽ giảm theo thời gian.

Tuy nhiên Hy Lạp đã không tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc tài khóa sau khi tham gia vào EURO. Vì thế cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp thường được giải thích do chi tiêu quá mức và che dấu nợ công của chính phủ. Điều này đúng nhưng không phải là toàn bộ câu chuyện.

2.1 Thâm hụt ngân sách

Business Insider có bài tóm tắt khá khúc chiết về thâm hụt tại Hy Lạp. Sau thế chiến II, Hy Lạp là một trong những nước thành công nhất trong phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng trung bình 7% trong hơn 2 thập kỷ cho đến trước khủng hoảng dầu lửa 1973-1974. Áp lực của khủng hoảng đã đưa chỉnh phủ dân túy (populist) lên nắm quyền giai đoạn 1970-1980s. Gốc dễ của vấn đề nợ công Hy Lạp xuất phát từ giai đoạn này khi các chính sách an sinh xã hội được tăng mạnh trong điều kiện suy giảm kinh tế. Các chính sách dân túy đã làm xói mòn sức cạnh tranhc của nền kinh tế Hy Lạp, mức tăng của phúc lợi xã hội khu vực công cao hơn mức tăng năng xuất của nền kinh tế và tỷ lệ nợ công/GDP bắt đầu tăng tốc từ những năm 1980s. Đầu 1990s, chính phủ bảo thủ (conservative) trong thời gian tồn tại ngắn ngủi đã có gắng đưa ra những chính sách thắt chặt tuy nhiên đã thất bại trong việc khôi phục tăng trưởng kinh tế và giảm lạm phát.Mặc dù vậy để tham gia EURO, Hy Lạp đã có những cải cách đáng kể để đưa mức thâm hụt xuống thấp bằng việc tăng thu ngân sách. Tỷ lệ bội chi đã giảm xuống mức 3% năm 1999, mức thấp nhất trong nhiều thập kỉ để tạo bước đệm vào EURO, mặc dù con số này bị phát hiện là làm giả và chính thức thừa nhận vào năm 2005.
The spending boom was primarily driven by substantial wage and pension increases for civil servants (especially in the early 1980s) and expansions in public sector employment financed by the issuance of government debt, which banks were required to buy at negative nominal interest rates set by the state. These policies coincided with a collapse of worker productivity growth.













Shortly after PASOK took power, the country's debt-to-GDP ratio began to balloon as the government borrowed heavily to finance its populist programme of state spending.
Trước đấy, năm 2003 Hy Lạp cũng dính vào scandal che dấu nợ 2.8 tỷ EURO nợ công dưới sự dàn xếp của Goldman Sachs. Goldman Sachs bị cáo buộc đã xử dụng nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ (currency swap) để che đậy nợ cho Hy Lạp tuy nhiên chi tiết giao dịch không được tiêt lộ. Tôi đoán là Goldman Sachs có thể đã sử dụng nghiệp vụ phái sinh này để tạo dòng tiền lớn hơn số lượng trái phiếu phát hành cho Hy Lạp. Ví dụ, Hy Lạp có nhu cầu 110 tỷ EURO để thanh toán, họ có thể phát hành trái phiếu tương đương với 100 tỷ USD để có được dòng tiền này nếu tỷ giá ở mức USD/EUR = 1.1. Tuy nhiên để che dấu 10% nợ công mới này, Goldman Sachs sẽ phát hành cho họ 90.9 tỷ trái phiếu bằng USD, tương đương với 100 tỷ EURO, để tạo ra dòng tiền 10 tỷ EURO còn thiếu Goldman Sachs xử dụng 1 hợp đồng hoán đổi. Trong swap này, tỷ giá thỏa thuận sẽ là USD/EUR=1.21 thay vì 1.1 như tỷ giá thị trường. Lúc này với 90.9 tỷ USD có được từ trái phiếu, Hy Lạp sẽ hoán đổi được 110 tỷ EURO và tạo được dòng tiền cần thiết trong khi tỷ lệ nợ công ghi nhận chỉ ở mức 100 tỷ EURO. Tuy nhiên lãi suất Hy Lạp phải trả cho Goldman Sachs trong hợp đồng swap sẽ cao hơn rất nhiều lãi suất chiều ngược lại, để lũy tiến phần lãi suất này đến khi trái phiếu đáo hạn sẽ bù đắp được khoản 10 tỷ EURO mà Goldman Sachs thực chất đã cho Hy Lạp vay. Số nợ bị dấu đi này thực chất không lớn so với khối nợ công của Hy Lạp, nó chỉ nhằm mục đích cho các nước EU thấy Hy Lap đang trong lộ trình giảm dần nợ công. Cho rằng Hy Lạp đã che dấu nợ công đến lúc bị phát hiện và gây ra khủng hoảng là đã hiểu nhầm bản chất. Phi vụ này của Goldman Sachs cũng ở mức quy mô nhỏ, không ảnh hưởng nhiều đến một nền kinh tế quy mô tương đối như Hy Lạp. Tuy nhiên, có lẽ các bạn nghiên cứu về nợ công ở VN cũng nên xem BTC có tham gia vào các swap này không, vì là nghiệp vụ phái sinh nên sẽ không thể hiện trong thống kê về nợ công :) (nói vậy chứ tôi nghĩ là không vì cả VN và các IB đều không có động lực để thực hiện những deal thế này).

Tuy nhiên sau khi tham gia EURO, xu hướng cẩn trọng tài khóa bị đảo ngược. Nhờ khu vực đồng tiền chung, trái phiếu của Hy Lạp được đánh giá có độ an toàn cao ( Fitch rating tăng từ BBB năm 1999 lên A+ năm 2003), chính phủ Hy Lạp dễ dàng tiếp cận dòng vốn giá rẻ và tăng chi tiêu. Một trong những khoan chi tiêu lãng phí hay được nhắc đến là Olympic Athens 2004 với tổng chi phí khoảng 15 tỷ USD. Khủng hoảng diễn ra khi chính phủ mới ở Hy Lạp công bố con số thực bội chi thực năm 2009 lên đến 12,7%, mức rất cao so với một nước phát triển có tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa thấp. Quy mô thâm hụt quá lớn đã gây shock cho các nhà đầu tư mặc dù trước đó Eurostat cũng đã đặt nghi vấn và nêu nhiều điểm loại trừ trong báo cáo thông kê tài khóa của Hy Lạp giai đoạn 2005-2009.

What did work, however, was the signing of the Maastricht Treaty in February, 1992. The treaty required countries to stick to limits on government deficit and debt levels in order to participate in the Economic and Monetary Union (EMU). For Greece, this meant a record-breaking increase in government revenues.



Cũng cần phải kể đến tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 đến Hy Lạp. Do cơ cấu kinh tế của mình, Hy Lạp là quốc gia EU chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ khủng hoảng. Hai ngành kinh tế quan trọng nhất của Hy Lạp là vận tải biển và du lịch đề là những ngành chịu tác động trực tiếp nhất. Phải nói thêm là Hy Lạp trong lịch sử vốn là một trong những quốc gia có đội tàu lớn nhất thế giới, hiện đội tàu chiếm khoảng 17% tổng trọng tải toàn cầu, đóng góp trực tiếp gần 5% GDP và khoảng 17% GDP nếu tính cả tác động gián tiếp đến các ngành khác. Do chỉ số giá vận tải biển BDI đã giảm đến 90% trong năm 2008 nên chỉ ngành này đã làm GDP giảm trực tiếp khoảng trên 1.6%.



Kinh tế suy thoái do khủng hoảng khiến thu ngân sách giảm mạnh và chi ngân sách tăng nhanh do các chương trình phúc lợi. Đáng lưu ý do toàn bộ nợ công của Hy Lạp là nợ nước ngoài nên chính phủ hoàn toàn không có khả năng tiền tệ hóa (debt moneitization).Việc trả nợ đến hạn hoàn toàn phụ thuộc vào việc huy động nợ mới. Trong điều kiện khủng hoảng với mức thâm hụt ngân sách quá lớn, Hy Lạp hoàn toàn không có khả năng huy động vốn từ các nhà đầu tư tư nhân, IMF + EU + ECB đã là những người đứng ra cung cấp các khoản vay mới cho Hy Lạp để tránh tình trạng vỡ nợ. Đi kèm với các gói cứu trợ của các định chế trên là các ràng buộc về cải cách chính sách kinh tế theo khắc khổ, bao gồm tăng thu thuế và giảm chi tiêu.

Sau 5 năm thực hiện, những chính sách khắc khổ này đã thu hẹp khoảng cách giữa thu-chi chính phủ, đạt tới trạng thái cân bằng vào năm 2014 và có thể tiến tới thặng dư vào các năm sau. GDP tăng trưởng dương trở lại lần đầu tiên từ năm 2008. Tuy nhiên vấn đề Hy Lap đang gặp phải hiện nay là sức ép từ các khoản vay đến ngày đáo hạn và người dân nước này không muốn tiếp tục thực hiện các biện pháp khắc khổ để trả nợ. Một chi tiết khá thú vị là người dân Hy Lạp có truyền thống chốn thuế trong lịch sử. Trong thời kỳ đế chế Ottoman thống trị Hy Lạp thế kỷ 15-18, hành vi trốn thuế được cổ vũ như một hoạt động yêu nước. Phân tích rất hay của Business Insider chỉ ra tầng lớp trung lưu là những người trốn thuế nhiều nhất ở nước này khi thu nhập báo cáo để chịu thuế thậm chí còn ít hơn số tiền thực tế dùng để trả khoản vay ngân hàng. Đây có lẽ là một trong những lý do chính khiến Hy Lạp gặp rất nhiều khó khăn trong việc cải cách tài khóa.





2.2 Thâm hụt kép
Nếu nhìn rộng ra cả khu vực Eurozone, Hy Lạp không phải là quốc gia duy nhất chịu khủng hoảng, mặc dù là quốc gia ảnh hưởng nặng nhất. Bên cạnh những nguyên nhân nội tại dễ nhận thấy về cấu trúc ngành của nền kinh tế và sự thiếu kỷ luật tài khóa, còn có những lý do khác sâu xa hơn dẫn tới khủng hoảng. Paul Krugman  có lẽ là người đầu tiên phân tích vấn đề này.

Trên thực tế trong số 5 nước tham gia khu vực đồng tiền chung gặp khủng hoảng (Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italy, Ireland), không phải quốc gia nào cũng có thâm thụt tài khóa hay nhà nước phúc lợi lớn. Hình dưới đây là tỷ lệ chi tiêu phúc lợi xã hội tính trên GDP của các nước khu vực đồng tiền chung. Hy Lạp nằm ở mức trung bình, trong các nước xảy ra khủng khoảng chỉ có Italy nằm trong nhóm 5 nước có tỷ lệ chi tiêu phúc lợi cao, trong khi Ireland nằm trong nhóm có tỷ lệ thấp nhất.





Tương tự, tuy tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Hy Lạp nằm trong nhóm cao nhất,  Italy, Bồ Đào Nha có mức thâm hụt ở mức khá thấp, dưới 3%. Tây Ban Nha và Ireland thậm chí còn có thặng dư về tài khóa giai đoạn trước khủng hoảng.




Điểm chung giữa 5 quốc gia gặp khủng hoảng là họ đều bị thâm hụt thương mại trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 nổ ra. Hy Lạp là một trong ba nước EU có mức thâp hụt tính theo GDP cao nhất. Một quốc gia khác không nằm trong nhóm 5 nước trên nhưng có mức thâm hụt thương mại cao là Estonia cũng sụt giảm 18% GDP thực trong giai đoạn 2007-2009. Từ những phân tích này, có thể thấy Paul Krugman đã rất có lý khi cho rằng những vấn đề về cán cân thanh toán mới chính là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng tại Hy Lạp.



Sự hình thành khu vực đồng tiền chung EURO đã tạo ra một làn sóng đầu tư vốn từ khu vực Tây Âu xuống Nam Âu, trong đó có Hy Lạp. Do không điều chỉnh được tỷ giá, dòng vốn chảy vào gây ra lạm phát, lạm phát làm tăng nhập khẩu do mặt bằng giá trong nước trở nên cao hơn so với bên ngoài và giảm xuất khẩu do chi phí sản xuất đắt đỏ hơn. Khủng hoảng thế giới 2008 đã làm đảo ngược kịch bản này khi nguồn vốn trở nên khan hiếm và có xu hướng quay trở lại các thị trường an toàn (core countries). Dòng vốn chảy ra gây áp lực giảm phát đi kèm với thất nghiệp và suy giảm kinh tế. Quá trình tự điều chỉnh giá nội bộ này (internal devaluation) sẽ lâu hơn rất nhiều so với việc phá giá ở các nước có đồng tiền riêng. Điều này giải thích tại sao đến 6 năm sau khủng hoảng, Hy Lạp với đạt được mức tăng trưởng dương năm 2014. Kinh tế suy giảm và thất nghiệp tiếp tục làm thâm hụt ngân sách trở nên trầm trọng do gánh nặng các chương trình phúc lợi tăng thêm trong khi nguồn thu ngân sách giảm xuống.

Khủng hoảng nợ công xảy ra không hẳn do mức nợ công của một quốc gia cao hay thấp, mà do khả năng thanh toán nợ của quốc gia đó và khả năng thanh toán nợ lại phụ thuộc trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế.Trường hợp của Hy Lạp là sự kết hợp tồi tệ của cả nợ công tích lũy trong nhiều thập kỷ và triển vọng kinh tế mờ mịt.