Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

Khủng hoảng Hy Lạp (I)

Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đang làm "nóng" cả giới làm chính sách và giới học giả, và đặc biệt thú vị với những ai nghiên cứu về kinh tế vĩ mô. Vì là một vấn đề được tranh luận gay gắt giữa các top economist nên chắc chắn nội hàm nhiều chi tiết phức tạp về lý thuyết kinh tế. Mới đây Anil Kashyap, giáo sư trường Chicago có viết bài tóm tắt rất xúc tích về cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp. Bài này được chia làm 3 phần, trong đó phần đầu tôi đề cập đến khu vực đồng tiên chung EURO, phần thứ tiếp theo về nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng, và phần cuối cùng là những diến biến hiện nay.

1. Đồng tiền chung EURO

Phân tích về khủng hoảng nợ của Hy Lạp không thể không đề cập tới khu vực đồng tiền chung EURO. Mới đây cả Paul KrugmanMankiw đều trích dẫn quan điểm của Milton Friedman về tác động của khu vực đồng tiền chung đến các nước thành viên, đặc biệt các nước ảnh hưởng bởi các  shock bất lợi như trường hợp của Hy Lạp hiện nay. Friedman cho rằng các nước Châu Âu, so sánh với 50 tiểu bang của Hoa Kỳ, chưa đủ điều kiện để hình thành một khu vực tiền tệ chung như không nói chung một ngôn ngữ khiến việc dịch chuyển lao động khó khăn, không có một chính sách tài khóa chung, giá cả cứng nhắc hơn. Lo ngại của Friedman trên thực tế dựa trên những nền tảng lý thuyết kinh tế khá đồ sộ về khu vực đồng tiền chung (Optimal currency area- OCA) được phát triển từ 1960s.

Điểm xuất phát của lý thuyết về OCA có lẽ là nghiên cứu kinh điển của Mundell năm 1961 (vốn là một trong 2 nghiên cứu mang về cho Mundell giải Nobel kinh tế 1999, nghiên cứu còn lại là về mô hình kinh tế mở quen thuộc IS-LM) . Theo lý thuyết của Mundell, các khu vực có các yếu tố sản xuất (lao động, vốn) có khả năng luân chuyển lẫn nhau cao thì việc thành lập khu vực đồng tiền chung có hiệu quả. Xét một ví dụ đơn giản, 2 nước A và B ở chế độ tỷ giá thả nổi với đồng tiền riêng của mỗi nước, demand dịch chuyển từ B về A sẽ gây áp lực lạm phát ở A và unemployement ở B. Trong trường hợp này, đồng tiền của A có thể lên giá so với B để cân bằng thị trường ở cả hai nước. Ngược lại với trường hợp đồng tiền chung, cả A và B sẽ ở trạng thái disequilibrium, ít nhất là trong ngắn hạn do lao động hoặc vốn không có khả năng luân chuyển để cân bằng lại thị trường ở cả hai nền kinh tế.

Tuy nhiên, khả năng luân chuẩn của lao động và vốn mới chỉ là yêu cầu ban đầu để đảm bảo tính hiệu quả của một đồng tiền chung. Lý thuyết phát triển cuối 1960s của Kenen chứng minh cần phải có một chính sách tài khóa chung để xử lý các asymmetric shock như vậy. Và thực tế khu vực Euro thiếu điều này. Cũng ở ví dụ trên, giả sử trong khu vực đồng tiền chung, lao động từ B có thể chuyển đến A để cân bằng thị trường lao động ở hai nước. Cũng do đó nguồn thu thuế của Chính phủ B sẽ giảm, trong khi gánh nặng ngân sách không thay đổi khi lực lượng ngoài độ tuổi lao động vẫn ở lại trong nước. Điều này khiến fiscal balance của B không bền vững. (Paul Krugman có một bài phân tích khá hay về OCA).

Giá cứng nhắc (sticky price) cũng là một bất lợi nữa của một đồng tiền chung. Đứng trước một asymmetric shock, một sức cạnh tranh của một quốc gia có thể được điều chỉnh nhanh chóng thông qua thay đổi tỷ giá, chủ động của chính phủ hay do các yếu tố thị trường. Trong khu vực đồng tiền chung, trạng thái cân bằng đạt được qua việc điều chỉnh các mức giá vi mô (e.g. lương công nhân, phí dịch vụ...) thay vì điểu chỉnh một biến số vĩ mô là tỷ giá. Điều này kéo dài quá trình điều chỉnh về cân bằng do các mức giá vi mô có tính cứng nhắc.

Mặc dù có những yếu tố bất lợi như vậy, tại sao các nước EU kiên quyết theo đuổi chính sách đồng tiền chung?. Bên cạnh những lợi ích kinh tế: giảm chi phí giao dịch, giảm currency risk, thúc đẩy giao dịch thương mại nội khối, đưa EURO thành đồng tiền dự trữ... yếu tố chính trị có thể đã đóng vai trò quan trọng. Friedman cho rằng mục đích chính cho việc hình thành đồng EURO là để giảm xung đột chính trị, nguy cơ chiến tranh giữa 2 nước lớn: Pháp và Đức, và là bước đầu để hình thành một nhà nước liên bang Châu Âu theo mô hình Hoa Kỳ.

Năm 2010, bất chấp những đe dọa từ khủng hoảng tại Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Ireland, EU Commission vẫn đưa ra một báo cáo khá lạc quan về triển vọng của đồng EURO. Báo cáo thú vị này phản bác lại các nhà kinh tế Hoa Kỳ vốn phê phán mạnh mẽ đồng EURO, và cho rằng các nước EURO đã hội nhập khá nhanh và điều kiện của OCA được cải thiện nhanh chóng. Theo tôi, các nhà kinh tế Châu Âu không hẳn là không có lý khi các nền kinh tế trong EURO đã có giai đoạn phát triển khá ổn định trước khủng hoảng và đồng EURO trong thời gian ngắn đã trở thành đồng tiền dự trữ mạnh. Tuy vậy cuộc khủng hoảng Hy Lạp hiện nay lại cho thấy rất rõ việc thỏa mãn các điều kiện OCA về luân chuyển vốn, lao động là chưa đủ để vượt qua assymetric shock mạnh như trường hợp của Hy Lạp. Khó khăn lớn của EURO là việc cách thành viên không hội nhập về tài khóa, đây chính là thách thức lớn nhất để giải quyết vấn đề khủng hoảng nợ của Hy Lạp.

(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét