Tôi rất tán thành nhận xét của Scott Summer về vấn đề đau đầu hiện tại nhất của của Trung Quốc là deflation (không phải stock market), tuy nhiên thú thực là không hiểu ý thứ 5 mà Scott muốn giải thích nguyên nhân của deflation là do đồng USD mạnh lên. Đồng USD mạnh lên đồng nghĩa với giá imports tăng lên gây inflationary pressure thì hợp lý hơn. Mặt khác quan sát tỷ giá song phương CNY-USD diễn biến khá ổn định trong 2 năm gần đây, không có biến động lớn. Tất nhiên tôi không nghĩ một top economist như Scott lại nhầm lẫn cơ bản như vậy mà có lẽ đằng sau là một lập luận sâu xa hơn.
Điểm khá đặc biệt là Scott đặt giả thuyết về việc PBoC đã chủ động thắt chặt tiền tệ để ngăn chặn bong bóng tài sản. Điều này có vẻ hơi ngược với nhận định của nhiều nhà quan sát khi PBoC đã có khuynh hướng cắt giảm lãi suất thời gian qua, nhưng Scott không hẳn là không có lý. Thị trường tiền tệ của TQ cũng giống như VN, NHTW kiểm soát đồng thời cả 2 biến là cung tiền và lãi suất thay vì chỉ 1 biến lãi suất. Do đó, có thể vừa hạ lãi suất và vừa giảm cung tiền nếu cần thiết, mặc dù điều này sẽ làm thị trường mất cân bằng. Do đó có lẽ cần phải xem chi tiết diễn biến thị trường OMO để khẳng định quan điểm tiền tệ của PBoC.
Ngoài giả thiết này ra thì tôi nghĩ còn 3 nguyên nhân gây ra deflation mà Scott chưa đề cập ở đây. Thứ nhất lạ sự giảm giá của các commodities trên thị trường thế giới. Lưu ý là TQ vốn là nước nhập khẩu commodities lớn nhất thế giới nên không ngạc nhiên nếu GDP deflator giảm. Nguyên nhân thứ 2 là việc dư thừa năng lực sản xuất, cạnh tranh dẫn đến giá bán của nhà sản xuất giảm. Nguyên nhân cuối cùng có thể là lỗi thống kê khi TQ muốn overstate tốc độ tăng trưởng GDP thực tế. Với tốc độ tăng GDP danh nghĩa không đổi, giảm phát sẽ làm tăng số liệu đo lường về GDP thực tế.
Về tác động của giảm phát đến kinh tế TQ có lẽ cần quan sát thêm phản ứng của khu vực đầu tư và tiêu dùng, nhưng có thể tác ảnh hưởng tiêu cực theo 2 hướng chính. Thứ nhất, giảm phát làm tăng lãi suất thực, do đó sẽ làm tăng gánh nặng nợ cho các DN tư nhân TQ, vốn cũng dựa nhiều vào vốn vay và có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao giống VN. Thứ hai, lãi suất thực tăng sẽ làm tăng tiết kiệm và giảm tiêu dùng, làm gia tăng hơn nữa khoảng cách giữa tiết kiệm-đầu tư khi mà đầu tư chậm lại do thị trường khó khăn. Điều này cũng có hiệu ứng tiêu cực đến chính sách lớn của TQ chuyển dịch nền kinh tế theo hướng tăng trưởng nội địa bền vững hơn bằng việc mở rộng tiêu dùng để thay thế xuất khẩu và đầu tư. Dẫu sao tôi cũng vấn cho rằng TQ còn nhiều dư địa của chính sách tiền tệ và cách khá xa bẫy thanh khoản như trường hợp Nhật Bản nên vẫn nhận định khá lạc quan về triển vọng kinh tế TQ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét